Thị trấn Phước Vĩnh nằm ở trung tâm của huyện Phú Giáo, phía đông giáp xã Tam Lập, tây giáp xã Vĩnh Hòa - Phước Sang, nam giáp xã Vĩnh Hòa và phía bắc giáp xã An Bình, với tổng diện tích tự nhiên 3.252,14ha, trong đó có khoảng hơn 900 ha đất trồng các loại cây công nghiệp dài ngày, diện tích còn lại chủ yếu trồng rau màu và các cây ngắn ngày khác.
Dân số Phước Vĩnh hiện có 5.227 hộ/19.824 nhân khẩu (trong đó dân thường trú 4.261 hộ/17.994 người), được chia thành 9 khu phố, với 40 Tổ nhân dân tự quản (Số liệu đến tháng 8/2024). Với 7 dân tộc chính là: Kinh, Hoa, Khơme, Tày, Mường, Nùng và Sán Chỉ. Trên địa bàn thị trấn có 2 Giáo xứ; 01 tu hội sống thánh thể của đạo thiên chúa giáo, hai ngôi chùa Phật giáo, một ngôi đình, sáu ngôi miếu và một Thánh thất của họ đạo Cao Đài.
Lần theo dấu tích của các bậc tiền nhân và qua khảo sát một số ngôi mộ cổ bằng đá ong còn sót lại, có thể xác định lớp cư dân đầu tiên đến tụ cư sớm nhất tại vùng này đều men theo các con suối Nước Vàng, Vàm Vá.
Vào thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725), khi Chưởng cơ, Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (con Nguyễn Hữu Dật, dòng dõi Nguyễn Trãi) vào kinh lược vùng đất phương Nam. Ông đã chia vùng đất Đông Phố ra làm 2 miền: “Lấy xứ Lộc Dã (Đồng Nai) làm huyện Phước Long, lập dinh Trấn Biên (Biên Hòa). Lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (Gia Định). Đặt quan cai trị, lập làng ấp, đặt thuế khóa. Theo đó vùng đất Bình Dương, Bình Phước ngày nay thuộc huyện Phước Long – Trấn Biên hay còn gọi Trấn Biên Hòa.
Năm 1808, huyện Phước Long được nâng lên thành phủ Phước Long, với tổ chức hành chính gồm 4 huyện: Bình An, Tân Chánh, Long Thành và Phước An. Vùng đất Tân Uyên, Phú Giáo thời đó thuộc huyện Tân Chánh.
Dưới Triều Nguyễn, nhằm phục hưng Nho giáo, nhất là Phật giáo, đồng thời để ngăn chặn những đạo lạ từ phương Tây du nhập vào Việt Nam, triều đình đã 2 lần ra chỉ dụ về việc phong sắc thần cho các đình làng ở phía Bắc (1825) và các đình làng ở phía nam (1883). Đến đời Minh Mạng (1820 - 1840), theo Minh Điều Hương ước, nơi nào có từ 100 mẫu đất và 200 dân định trở lên thì được phép lập làng. Nếu làng lớn gọi là xã, làng nhỏ gọi là thôn hoặc xóm. Nơi nào có từ 10 mẫu đất ước khoảng chục dân đinh gọi là ấp. Chỉ có thôn, làng, xã được lập Đình, ấp chỉ được lập miếu. Vài ba xóm hoặc thôn hợp lại thành làng. Làng Phước Hòa, Phước Vĩnh, Phước Sang ra đời từ chỉ dụ này. Làng Phước Vĩnh thời đó có chiều dài từ bến đò sông Chim Lê Tuốt đến hết vùng Nước Vàng ngày nay.
Nhưng khi kiểm lại dân định của Làng Phước Sang (làng Phước Sang lúc đó bao gồm cả xã An Thái, An Linh, Tân Hiệp ngày nay) đếm đi, đếm lại vẫn không đủ 200 xuất định. Do đó, làng Phước Vĩnh phải cắt toàn bộ dân đinh vùng Nước Vàng giao về làng Phước Sang. Địa giới chính thức của làng Phước Vĩnh được tính từ thôn Sông Nhỏ (cầu Sông Bé) dài đến cống Nước Vàng.
Ngay sau khi đánh chiếm toàn bộ xứ Nam Kỳ lục tỉnh, thực dân Pháp tiến hành phân định lại ranh giới và cải tổ các đơn vị hành chánh cũ, sao cho phù hợp với chế độ thuộc địa của chúng. Theo đó, ngày 05 tháng 01 năm 1876, thực dân Pháp chia Nam kỳ ra thành 4 khu vực hành chính, bao gồm: Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát Sắc (Bas sac). Mỗi khu vực hành chính lớn bao gồm nhiều địa hạt hoặc tiểu khu hành chính nhỏ.
Khu vực hành chính Sài Gòn gồm 5 địa hạt và các tiểu khu hành chính là: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Gia Định, Bà Rịa. Vùng đất Tân Uyên, Phú Giáo ngày nay thuộc phủ Phước Long của tiểu khu hành chánh Biên Hòa.
Ngày 20 tháng 12 năm 1899, thực dân Pháp đổi tên các tiểu khu hành chánh thành các tỉnh, đồng thời bỏ các tên gọi mỹ danh theo âm Hán - Việt mà dùng các tục danh thuần Việt để đặt tên các tỉnh như: Thủ Dầu Một, Bà Rịa, Gò Công, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Sa Đéc, Trà Vinh, v.v... bỏ phủ, lập huyện. Phủ Phước Long chia thành hai huyện Tân Uyên và Phước Long. Huyện Tân Uyên có 3 tổng là: Chánh Mỹ Thượng, Chánh Mỹ Trung và Chánh Mỹ Hạ. Làng Phước Vĩnh thuộc tổng Chánh Mỹ Hạ.
Về sau, làng Phước Vĩnh sát nhập với làng Thạnh Hòa, lấy chữ cuối của mỗi làng ghép lại thành tên xã là xã Vĩnh Hòa thuộc tổng Chánh Mỹ Hạ, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Xã Vĩnh Hòa có 11 xóm, làng là: Cần Lố, Xà Mách, Bố Mua, Phước Vĩnh, Vàm Giá, Dầu Lông, Cựa Gà, Đuôi Chuột, Bưng Riềng, Trảng Sắn, Suối Tre.
Trong hai cuộc chiến tranh ác liệt, nhiều xóm cũ bị địch đánh phá tan hoang, người dân bị thúc ép phải dồn dân bỏ làng, xóm tha phương. Do đó, một số xóm cũ ngày xưa nay tuy còn tên, nhưng có xóm không còn người ở.
***
Sau khi Mỹ hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương độc chiếm Việt Nam. Với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, đế quốc Mỹ đã dựng lên ở miền Nam chính quyền độc tài gia đình trị, phản động Ngô Đình Diệm.
Vừa dung túng, vừa tiếp tay cho Ngô Đình Diệm một mặt ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ về Tổng tuyển cử, mặt khác tổ chức lừa mị dân chúng bằng các trò “trưng cầu dân ý”, “bầu cử Quốc hội”, thanh trừng các đảng phái đối lập, điên cuồng, truy lùng trả thù những người yêu nước, kháng chiến cũ, bành trướng thế lực gia đình trị của mình.
Về mặt tổ chức hành chính, chính quyền Ngô Đình Diệm vừa sửa đổi địa giới, vừa bắt đặt lại hầu hết tên của các tỉnh cũ. Bỏ tên gọi theo tục danh thuần Việt, đặt lại theo âm Hán - Việt như: Phước Tuy thay Bà Rịa, Định Tường thay Mỹ Tho - Gò Công, Kiến Hòa thay Bến Tre, Ba Xuyên thay Sóc Trăng, An Xuyên thay Bạc Liêu, Kiến Phong thay Sa Đéc, Vĩnh Bình thay Trà Vinh, v.v., sửa tên Nam Bộ thành Nam Việt. Chia nhỏ một số tỉnh như Thủ Dầu Một thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Long; Biên Hòa bị tách thành ba tỉnh: Biên Hòa, Long Khánh và Phước Long. Đổi huyện thành quận; thành lập thêm một số tỉnh mới như: Hậu Nghĩa, Côn Sơn, v.v..
Ngày 23 tháng 01 năm 1959, Ngô đình Diệm ký sắc lệnh số 25/NV về việc thành lập tỉnh Phước Thành.
Theo sắc lệnh này, tỉnh Phước Thành có 3 quận là: Phú Giáo, Tân Uyên, Hiếu Liêm. Trong đó, quận Phú Giáo có 6 xã, quận lỵ đặt tại Nước Vàng. Quận Tân Uyên có 12 xã, quận lỵ đặt tại Uyên Hưng. Quận Hiếu Liêm có 4 xã, 5 dinh điền và 2 vùng nhỏ là Tà Lài và Bù Na, quận lỵ đặt tại Hiếu Liêm. Phước Vĩnh là thị xã của tỉnh Phước Thành. Tỉnh trưởng đầu tiên của Phước Thành là tên Lữ Châu Thiện, nguyên Giám đốc Nha Trung ương dân vệ. Sau đó Diệm đưa con nuôi của mình là Thiếu tá Nguyễn Minh Mẫn, một tên ác ôn khét tiếng lên làm Tỉnh trưởng Phước Thành.
Đêm 17, rạng sáng ngày 18 tháng 9 năm 1961, quân và dân ta nổ súng tấn công, chiếm lĩnh dinh Tỉnh trưởng và giải phóng tỉnh lỵ Phước Thành. Tên Tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn bị diệt, còn cảnh sát trưởng và tỉnh phó bị bắt sống. Thật mỉa mai cho Ngô Đình Diệm vì trước đó ít lâu, y từng nói với báo giới rằng: Phước Thành là nơi “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thử”. Tức là “tiến có thế công, lui có thế giữ”.
Về phía cách mạng, nhằm kịp thời ứng phó với các âm mưu thủ đoạn thâm độc của kẻ thù và phù hợp với tình hình lúc bấy giờ, nhất là vùng ven chiến khu Đ. Đêm 27 tháng 6 năm 1961, tại căn cứ Mỹ Lộc, Khu ủy miền Đông đã quyết định tách tỉnh Thủ Biên thành 3 tỉnh mới tương ứng với 3 tỉnh của chính quyền Sài Gòn là Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Phước Thành.
Tỉnh Phước Thành của ta có 2 huyện là Tân Uyên 1 và Tân Uyên 2. Về sau, Tân Uyên 1 đổi thành huyện Phú Giáo, gồm 8 xã: Phước Vĩnh, Phước Sang, An Linh, An Long, Lai Uyên, Tân Bình, Phước Hòa Xã và Phước Hòa Sở.
Từ chủ trương sáng tạo và đúng đắn trên, hoạt động của lực lượng cách mạng Phước Thành đã gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Các căn cứ kháng chiến được mở rộng và liên hoàn hơn.
Về phía chính quyền Sài Gòn, tình hình mọi mặt trên địa bàn tỉnh Phước Thành bị cô lập nghiêm trọng, nên ngày 06 tháng 7 năm 1965, chính quyền Sài Gòn buộc phải ra sắc lệnh số 131/NV, bãi bỏ tỉnh Phước Thành, giao các huyện của tỉnh Phước Thành về tỉnh Biên Hòa.
Về phía cách mạng, trước sự tăng quân ồ ạt của quân viễn chinh Mỹ và các nước chư hầu trực tiếp tham chiến tại miền Nam, nhằm tập trung lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân, kết hợp với việc tập trung lực lượng vũ trang tập trung, đủ sức hình thành những quả đấm thép. Quân ủy Miền đã thành lập các đơn vị chủ lực, đồng thời Khu ủy miền Đông cũng giải thể một số tỉnh nhỏ, lập tỉnh lớn hơn.
Cuối tháng 10 năm 1966, tỉnh Phước Thành giải thể. Lực lượng của các huyện Tân Uyên, Phú Giáo được tăng cường cho tỉnh Thủ Dầu Một. Đồng thời, chuyển một số đơn vị hành chính cấp xã về lại tổ chức hành chính cũ như: Bù Cháp, Lý Lịch về tỉnh Biên Hòa, nam Bù Na về tỉnh Phước Long, sát nhập Vĩnh Hòa về Phước Vĩnh.
Ngày 02 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị quyết sát nhập 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long thành tỉnh Sông Bé, với 7 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã là: Bình Long, Phước Long, Đồng Xoài, Bến Cát, Tân Châu, Thuận An và thị xã Thủ Dầu Một (Đồng Xoài nhập với Phú Giáo thành huyện Đồng Phú. Tân Uyên nhập với Châu Thành, thành huyện Tân Châu); theo đó, xã Phước Vĩnh thuộc huyện Đồng Phú, tỉnh Sông Bé.
Ngày 1 tháng 8 năm 1994, xã Phước Vĩnh tách thành hai đơn vị hành chính cấp xã là: thị trấn Phước Vĩnh và xã Vĩnh Hòa trực thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Sông Bé.
Ngày 06 tháng 11 năm 1996. Quốc Hội ra Nghị quyết tách 8 tỉnh, trong đó tỉnh Sông Bé được tách thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Tỉnh Bình Dương có 4 đơn vị hành chính cấp huyện thị gồm: thị xã Thủ Dầu Một, 3 huyện Thuận An, Tân Uyên và Bến Cát.
Ngày 20 tháng 8 năm 1999, huyện Phú Giáo được tái lập, gồm có 9 xã, thị trấn là: Phước Hòa, Vĩnh Hòa, An Bình, Tân Long, An Long, Tân Hiệp, Phước Sang, An Linh và thị trấn Phước Vĩnh (sau này Phú Giáo thành lập thêm hai xã An Thái và Tam Lập). Thị trấn Phước Vĩnh trở thành huyện lỵ của huyện Phú Giáo.
Trải qua biết bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, địa danh Phước Vĩnh thân thuộc đã đi vào tiềm thức của bao thế hệ cư dân tụ hội mở đất, dựng xây, bảo vệ và phát triển thị trấn Phước Vĩnh có diện mạo như ngày nay.
Về tự nhiên, Phước Vĩnh có địa hình tương đối bằng phẳng, hơi nghiêng về phía nam. Đất chủ yếu là loại pha cát, rất thuận tiện cho việc trồng trọt các loại cây công nghiệp như: điều, cao su, tràm, v.v..
Ở các vùng thấp, ven suối là những vùng chuyên canh cây lương thực, thực phẩm đủ sức cung cấp cho địa phương và các xã lân cận.
Về khí hậu, Phước Vĩnh cũng như các vùng đất Thủ Dầu Một xưa và Bình Dương ngày nay đều chịu ảnh hưởng của 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 âm lịch và thường kéo dài đến tháng 10 âm lịch. Đặc biệt, ba tháng 7, 8, 9 mưa liên tục với lượng mưa rất lớn.
Nhìn chung, hầu như không năm nào Phước Vĩnh cũng bị bão, kéo theo những đợt mưa dầm vì chịu ảnh hưởng của những cơn bão gần. Tuy nhiên, Phước Vĩnh xưa nay ít khi bị lũ lụt kéo dài. Những năm gần đây, do ảnh hưởng biến đổi về khí hậu, môi trường, tại đây đã xuất hiện những đợt mưa trái mùa, đầu mùa mưa có năm có sấm sét và lốc xoáy mạnh gây tốc mái nhà và gãy đổ cây cao su, nọc tiêu, v.v..
Ngoài nguồn nước mưa, Phước Vĩnh còn có nguồn nước mạch, nước ngầm đa dạng, phong phú. Nếu giếng khoan có độ sâu khoảng 15,16 mét là có đủ nước sạch để dùng. Nguồn nước do những con suối bao bọc quanh Phước Vĩnh khá dồi dào. Phía bắc có suối Nước Vàng, phía nam có suối Vàm Giá, phía đông có suối Cựa Gà, phía tây có suối Lễ Trang, Xà Mách quanh năm nước không cạn, thuận tiện cho phục vụ sản xuất nông nghiệp, v.v.. Tóm lại đất đai, khí hậu và nguồn nước tương đối thuận lợi cho việc trồng trọt và sản xuất nông nghiệp, phát triển trang trại chăn nuôi, trồng cây công nghiệp dài ngày và hoa màu các loại.
Về nguồn lợi rừng, Phước Vĩnh là một trong nhiều xã của huyện Phú Giáo không còn rừng, nhưng theo lời kể của những người cao tuổi thì trước đây vùng này rừng già nối với rừng Tây Nguyên có đủ các loại gỗ quý như: cẩm, gõ, bằng lăng, trắc, v.v., khi san ủi đất trồng cao su, vẫn phát hiện khá nhiều lõi gốc rất lớn còn để lại đến tận bây giờ. Cùng với rừng, các loài muông thú như: cọp, voi, nai, mễn, heo rừng, khỉ, VOỌC... Số lượng thú rừng phong phú đã làm cho nhiều vùng đất của Phước Vĩnh xưa trở thành tục danh như: Hang Cọp, Bàu Trư Đỉa, Bến Tượng, Bưng Heo, v.v..
Về giao thông, con đường ĐT 741 là huyết mạch nối thị xã Thủ Dầu Một với các tỉnh Tây Nguyên. Đoạn chạy qua Phước Vĩnh dài khoảng 4 km. Các đường vành đai, đường nội ô cơ bản đã được trải nhựa, bê tông hóa có tổng chiều dài gần 30 km. Địa giới hành chính của Phước Vĩnh với các xã bạn được phân định bằng 4 cây cầu và cống. Phía bắc là cống Nước Vàng, phía nam là cầu Vàm Giá, phía đông là cầu Bà Ý, phía tây là cầu Lễ Trang.
Ngược dòng thời gian tìm về quá khứ cội nguồn, trong tiến trình khai khẩn vùng đất Đông Nam Bộ, cho thấy vùng đất Phước Vĩnh đã có dẫn đến sinh sống hàng trăm năm. Dân bản địa chủ yếu là các tộc người Stiêng, Khơme. Một số nơi như khu vực Cần Lố, Vàm Giá, Gò Găng, Bưng Riềng còn sót lại một số gò mả mà dân địa phương quen gọi là mả Mọi; nay đã bị san lấp để trồng cây cao su, chỉ còn sót lại một số mảnh chum ché, miểng bình, hũ bằng sành.
Lớp cư dân đầu tiên là đồng bào dân tộc Khơme từ vùng Nha Bích xuống Nước Vàng bứt mây, song, bẻ măng, tát cá, lấy mật ong. Lúc đầu họ đi lẻ tẻ, sáng đi tối về. Dần dần do kiếm ăn thuận lợi, họ làm chòi ở lại và phát rẫy dọc hai bên suối Nước Vàng, suối Vàm Giá, tụ thành từng cụm 5,6 gia đình. Sản vật thu lượm được kể cả xương cọp, ngà voi,sừng nai đều đem về vùng Nha Bích đổi muối, vải và các nhu yếu phẩm khác.
Năm 1897, sau khi thí nghiệm trồng cao su thành công ở một số vùng như Long Khánh, Dầu Dây, giới chủ tư bản người Pháp ồ ạt tổ chức thăm dò và tiến hành khai phá rừng để trồng cao su ở Lộc Ninh, Dầu Tiếng, Bình Long.
Đến năm 1925, lô cao su đầu tiên được trồng ở Phước Hòa, do tên Sa La Mon làm chủ sở. Toàn bộ số cai, xu và phu cao su (tên gọi người công nhân lúc thuộc Pháp) chỉ có khoảng 200, 300 người, chủ yếu là dân “công tra” được tuyển mộ từ các tỉnh miền Trung, miền Bắc vào. Do thiếu nhân công, giới tư sản Pháp cấu kết với chính quyền thuộc địa tiến hành bố ráp, bắt bớ dân ở các vùng lân cận về làm phu cho các sở.
Đầu năm 1926, quân Pháp vượt sông Nhỏ (tên Sông Bé ngày nay), bao vây càn quét vùng đồng bào các dân tộc sinh sống, nhằm dồn dân về lập thành sóc (bản) Nước Vàng, triệt hạ nhà cửa, đốt hết lúa gạo, hoa màu để khống chế dân. Chúng bắt khoảng 20 người gồm: thanh niên, phụ nữ, kể cả người già còn khoẻ mạnh về sở Phước Hòa để làm phu. Nhưng chỉ ít ngày sau số người này đã bỏ trốn hết về Nước Vàng.
Tuy càn quét bắt người không thành, nhưng qua chuyến càn quét này, bọn chủ sở đã phát hiện một vùng đất màu mỡ, bằng phẳng rất thích hợp với cây cao su. Chúng tiến hành mở rộng việc trồng cao su, lập sở mới trên vùng đất bên kia sông Bé, trong đó có sở cao su Bố Mua.
Sở cao su Bố Mua bắt đầu trồng cao su vào năm 1927 – 1932; lúc đầu do người Pháp tên là J. La Bbê đứng ra khai hoang và trồng mới.
Sở Bố Mua nằm phía đông đường ĐT 741, từ cống Nước Vàng đến cầu Vàm Giá, chia ra làm 12 lô. Khai hoang trồng mới chủ yếu bằng thủ công. Cây cao su trồng ở sở Bố Mua chủ yếu trồng bằng hạt nên tuy cây cao su cao to, nhưng năng xuất, sản lượng mủ rất thấp. Sở Bố Mua ra đời, kéo theo số lượng dân nhập cư đến ở Phước Vĩnh tăng lên nhanh chóng. Phu các sở chủ yếu vẫn là người địa phương và các làng lân cận, một phần là dân công tra được mua lại từ đồn điền cao su Phú Riềng và một số đồn điền lân cận, nhưng vẫn không đủ. Do đó, từ năm 1925 đến 1945 đã có 18 đợt tuyển mộ phu ở các tỉnh miền Trung, đưa về làm ở sở Phước Hòa và Bố Mua. Ngoài ra, một bộ phận dân cư khá đông từ các vùng Búng, Củ Chi được đưa đến làm cho sở Bố Mua.
Sau này, trong chiến tranh sở Bố Mua do bom đạn tàn phá, việc khai thác mủ không còn hiệu quả, cộng thêm hàng năm thường xuyên xảy ra cháy một số lô cao su; vì vậy chủ sở chuyển hẳn về tập trung khai thác mủ ở sở Phước Hòa.
Nhìn dưới góc độ tín ngưỡng tôn giáo, có thể nói từ xa xưa đến nay, vùng đất Phước Vĩnh là nơi hội tụ cư dân của nhiều vùng, miền khác nhau, vì vậy, họ mang đến Phước Vĩnh nhiều nét văn hóa, tập tục tín ngưỡng đa dạng phong phú.
Phước Vĩnh hiện nay có 3 tôn giáo chính là Phật giáo, Thiên Chúa giáo và Cao Đài với các cơ sở thờ tự gồm: hai ngôi chùa, một ngôi đình, hai giáo xứ, một thánh thất của họ đạo Cao Đài.
Về Phật giáo, hiện nay có 463 tăng ni, phật tử. Lịch sử hình thành những ngôi chùa ở vùng đất này khá sớm. Ngoài chùa chính là Thiên Ân được xây dựng từ năm 1965, được xây dựng lại 2005 tại khu phố 3 thị trấn Phước Vĩnh hiện nay. Ngôi chùa đầu tiên có tên là chùa Bửu Phước, chùa được bá tánh đóng góp công đức xây dựng vào năm 1908 tại Bưng Lơn nhưng bị quân Pháp đốt vì chúng nghi chùa là nơi hội tụ của nghĩa quân phong trào Thiên Địa Hội. Sau đó, chùa được Hòa thượng Từ Chí và hai nhà sư Thiện An và Thiện Linh đưa về Phước Vĩnh xây dựng lại, tọa lạc bên suối Nước Trong gần cầu Sông Bé ngày nay.
Năm 1945, sau khi các nơi nổi dậy giành chính quyền, lực lượng cách mạng non trẻ gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn; đặc biệt là thiếu vũ khí. Lực lượng vũ trang cách mạng lúc đó chủ yếu trang bị tầm vông vạt nhọn, dao búa, thậm chí cả những cục đá xanh.
Trước những khó khăn của cách mạng, Hòa thượng Từ Chí và hai nhà sư đã bàn bạc với nhau tìm cách lấy súng của quân Pháp cho cách mạng. Vào mùa lễ Vu lan năm 1947, dân từ vùng Tân Bình, Phước Hòa kéo lên; từ vùng Nước Vàng, Phước Sang kéo xuống dự lễ rất đông. Lính Pháp hai bên cầu Sông Bé được mời đến dự tiệc. Do đã có tính toán và chuẩn bị từ trước, nên tuy là chùa những vẫn có nhiều thứ rượu đãi khách. Lợi dụng lúc chúng đã ngà ngà say, có tên lăn ra ngủ, Hòa thượng Từ Chí, Thiện An, Thiện Linh cùng một số phật tử đồng loạt cướp lấy súng của địch và chạy mang vào chiến khu cho cách mạng.
Sau sự kiện này, giặc Pháp đem quân đến kéo đổ chùa, đập nát từng viên ngói và đốt chùa Bửu Phước lần thứ hai.
Hòa thượng Từ Chí và Thiện Linh sau này hoạt động và hy sinh trong vùng chiến khu Đ. Quý sư Thiện An hoạt động cách mạng và trở thành Trưởng Công an - Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Sông Lô. Được Nhà nước tặng thưởng hai Huân chương Kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Là người từ bé có chân tu, vì vậy khi hòa bình lập lại (1954), nhà sư Thiện An xin nghỉ việc và quay trở lại nghiệp tu của mình, được tôn phong ngôi vị Hòa thượng năm 1972, ông vận động công đức xây dựng đức, lại ngôi chùa Bửu Phước lần thứ ba, toạ lạc tại ấp 1A xã Phước Hòa hiện nay.
Đình Phước Vĩnh được xây dựng tại Vàm Giá vào năm 1922, cột đình bằng gỗ mít, một người ôm không xuể. Đình trở thành nơi làm việc của Hương chức Hội tề trong làng; đồng thời, là nơi diễn ra các lễ hội mang tín ngưỡng dân gian.
Sau này khi người Pháp mở dinh điền cao su, phát triển đạo Công giáo, khu đất của làng cất đình trước đó bị san ủy để trồng cao su gọi là sở Ông Cố, vừa cho xây dựng nhà thờ Vĩnh Hòa ngày nay.
Năm 1971, đình được xây dựng lại tại khu phố 3 như ngày nay.
Nhà thờ Phước Vĩnh được khởi công xây dựng năm 1961, do ông Trần Thái Hiến là Linh mục đầu tiên. Nhà thờ Bàu Ao được xây dựng cuối năm 1962. Bà con giáo dân chủ yếu từ các dinh điền cũ gom lại. Linh mục đầu tiên là ông Hà Minh Nghĩa.
Ngoài hai nhà thờ trên, vào những năm 1928 – 1929, cùng với việc khai khẩn đất đai trồng cao su ở sở Bố Mua, ở khu vực Bến Sạn đã có nhà Nguyện, sau đó trở thành nhà thờ họ đạo Bố Mua - thuộc giáo xứ Búng.
Sau đó, một phần do chiến tranh tàn phá, một phần sở Bố Mua bị tan rã, dân làm sở phần lớn chuyển về Phước Hoà; vì vậy nhà thờ cũng được chuyển về dựng lại sát sở Phước Hòa. Nhiều cổ vật có giá trị được giáo dân mang từ những nhà thờ ngoài Bắc vào như: bàn thờ, chân đèn được khắc chạm tinh xảo, được lưu giữ tại nhà thờ Phước Hòa cho đến nay.
Nói đến đạo Công giáo ở Phước Vĩnh xưa, giáo dân Phước Vĩnh không thể quên những đóng góp lớn với đạo với đời của cố linh mục Đinh Khắc Túc. Suốt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ với tư cách là linh mục của cả một vùng từ Nước Vàng đến Nhà Đỏ, linh mục đã có công tiếp tế gạo, thuốc men, thực phẩm cho cách mạng. Ông đã được Đảng và Nhà nước trao tặng nhiều bằng khen và Huân chương Chiến công giải phóng hạng III. Khi ông còn sống nhiều lãnh đạo Đảng, chính quyền tỉnh Sông Bé về thăm rất thân tình.
Ngoài Phật giáo và Thiên Chúa giáo, đạo Cao Đài ở Phước Vĩnh mới xuất hiện sau ngày miền Nam giải phóng. Lúc đầu do gia đình, bà con giòng họ của ông Lễ sanh Nguyễn Văn Thanh từ xã Phú Chánh, huyện Tân Uyên lên lập nghiệp, làm ăn. Nhìn chung đạo hữu còn quá ít, cơ sở thờ tự còn tạm thời (giáo dân đang chuẩn bị xây dựng thánh thất tại khu phố V hiện nay).
Những người tu hành và tín đồ ở Phước Vĩnh, cũng giống như các nơi khác, hàng năm đều có các ngày lễ chính như:
Đạo Phật có các ngày lễ như: Phật Đản (15/4), Vu Lan (15/7), ngày vía Di Đà (17/11)...
Đạo Thiên Chúa có các lễ như: Lễ Phục sinh (vào chủ nhật cuối tháng 3 có năm vào tháng 4), lễ Noel (25/12)...
Đạo Cao Đài có các lễ như: Diệu trì Thánh Mẫu (15/8), ngày vía Đức Chí Tôn ngày 9 tháng giêng...
Ngoài các ngày lễ, hàng năm còn diễn ra một số tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam đã tồn tại lâu đời ở địa phương như:
Lễ Cầu bông (Cầu Hoa, Kỳ Huê) thường tổ chức vào ngày 16 tháng 2 hàng năm. Lễ này cầu cho “phong điều vũ thuận” cầu cho “mưa hòa, gió thuận”, “mùa màng thuận lợi, bội thu”.
Lễ Kỳ yên thường tổ chức vào các ngày 12 hoặc 13 tháng 8; cũng có khi vào tháng 11 hàng năm. Lễ này cầu cho “Quốc thái dân an”, xóm làng yên vui, đất nước hòa bình. Đây là lễ chính quan trọng nhất trong năm vì vậy cứ 3 năm, theo nguyên tắc “Tam niên đáo lệ Kỳ Yên” sẽ tổ chức cúng lớn một lần. Những năm đáo lễ thường rước các gánh hát về góp vui, các tuồng tích như: “Lã Bố hý Điêu Thuyền”, “Phụng nghi Đình” đêm nào cũng diễn đi diễn lại nhưng người xem vẫn chen chúc nhau đứng chật ních sân đình.
Các ngày lễ tại Đình, không do chính quyền tổ chức mà thường do các cụ cao niên đứng ra lo liệu, vì vậy, tham gia ngày cúng Đình chủ yếu là người dân tự nguyện, bình đẳng và tự giác với nhau rất vui vẻ.
Lễ Đình trước đây còn là dịp chị em trổ tài làm bánh, nấu xôi, đây cũng là dịp tổ chức các trò chơi dân gian như kéo co, vật, leo cột mỡ, nhảy bao bố. Giải thưởng thường chỉ là một chiếc nón lá, khúc vải hoặc một gói thuốc lá; về giá trị vật chất không đáng kể, nhưng về tinh thần thì không có gì sánh được. Nhiều thanh niên xấu trai nhà nghèo thi tài đạt giải thưởng, lấy được vợ đẹp là chuyện bình thường.
Ngoài những ngày lễ chung, ở một số Khu phố, nhân dân hàng năm còn tổ chức cúng Miếu vào ngày mùng 9 tháng giêng.
Ngày nay, nhân dịp cúng miễu, cũng là dịp bà con trong khu phố tụ tập đầy đủ gặp gỡ nhau, chính quyền cũng như các đoàn thể báo cáo với cô bác những việc đã làm trong năm, dự kiến một số việc nhờ cô bác tham gia cùng bàn bạc, cùng làm. Phát giấy khen, phát giấy công nhận gia đình văn hóa, v.v... Biến ngày cúng Miễu thành ngày gặp gỡ đầu năm vô cùng có ý nghĩa ở cộng đồng dân cư.
Như vậy, vùng đất Phước Vĩnh từ rất xa xưa đã là nơi hội tụ của cư dân nhiều vùng, miền với những nét văn hóa, tập quán đa dạng phong phú, theo phương châm sống hòa hợp trên vùng đất mang tên chiến khu miền Đông “gian lao mà anh dũng”. Trong từng thời kỳ của lịch sử, quân dân Phước Vĩnh đã đóng góp công lao xứng đáng của mình vào cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và thống nhất đất nước của dân tộc. Ngày 18 tháng 10 năm 1978, quân và dân Phước Vĩnh vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày nay, chiến tranh tuy đã lùi xa, nhưng những năm tháng kiên cường đấu tranh với thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của quân và dân Phước Vĩnh mãi mãi sẽ đi vào lịch sử. Trân trọng tự hào về quá khứ vẻ vang, Đảng bộ và nhân dân Phước Vĩnh càng nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc giữ gìn, phát huy những giá trị truyền thống, những giá trị tinh thần vô giá mà các thế hệ cha anh đã dày công gây dựng, nguyện mãi mãi ghi nhớ công lao và tiếp bước cha anh, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quê hương ngày càng văn minh, giàu đẹp./.
Nguồn: Lịch sử Đảng bộ TT- Phước Vĩnh